Monday 26 December 2011

Khi người Hoa vỡ mộng


Khi người Hoa vỡ mộng

Cập nhật: 13:45 GMT - thứ hai, 26 tháng 12, 2011
Công nhân may ở tỉnh Triết Giang

Tạp chí Chính sách Ngoại giao nói nhiều người Trung Quốc không còn tin họ có thể khá giả nhờ làm việc chăm chỉ và trung thực

Tạp chí Chính sách Ngoại giao của Hoa Kỳ vừa có bài nói về sự thất vọng của nhiều người Trung Quốc trước các khó khăn và bế tắc họ phải đối mặt trong những năm gần đây.

Bài mang tựa đề "Chấm dứt Giấc mơ Trung Quốc" của Christina Larson bắt đầu với câu chuyện của người bạn tác giả, một nhà báo làm việc tại Thẩm Dương với mức lương bèo bọt.

Anh phải sống chung với sáu người khác trong một căn nhà ba phòng ở ngoại ô thành phố, năm trong số đó là các cô gái trẻ mà anh phát hiện ra làm nghề bán hoa.

Tác giả Larson nói nhiều người Trung Quốc sống chật vật tại các thành phố lớn với mức lương khó có thể theo kịp mức lạm phát khoảng 4% mà người ta nghi là bị chính quyền nói giảm đi.

"Bất cứ ai ở Bắc Kinh cũng có thể chỉ ra các ví dụ về những người bạn phải thuê nhà với giá cao hơn tới 10% hoặc hơn nữa trong một năm," bà Larson viết.

"Giá tại các nhà hàng tiếp tục tăng ngay cả khi khẩu phần nhỏ đi trông thấy.

"Tính thêm cả những mất mát vô hình mà tiền không thể mua được - như chất lượng không khí và an toàn thực phẩm - người ta có thể bắt đầu hiểu được những lời than phiền của những người Bắc Kinh không khá giả rằng chất lượng cuộc sống của họ có vẻ giảm đi ngay cả khi tổng thu nhập quốc dân tăng tới mức chín phần trăm."

Bà Larson, người cũng là biên tập viên cộng tác của tạp chí Chính sách Ngoại giao - Bấm Foreign Policy, nói so với lần cuối cùng bà sống ở Bắc Kinh, bà có thể cảm thấy sự thất vọng của người Trung Quốc.

"Bạn có thể thấy nó trên những gương mặt khắc khổ trong tàu điện ngầm, nghe nó trong các giọng nói bực tức giữa những câu chuyện quanh bàn ăn và nhất là cảm thấy sự thô lỗ mới có của lái xe taxi, những người không còn nghĩ rằng họ được giá hời khi đưa khách đi lại để lấy 10 nhân dân tệ, tức khoảng 1,6 đô la Mỹ."

'Triều đại'

Foreign Policy nhắc lại một loạt các vụ mà người dân đã nhân cơ hội trút giận trong năm.

Đó là vụ thanh niên Lý Khải Minh phải ra tòa hồi đầu năm vì lái xe khi say rượu và đâm phải hai sinh viên khác làm một người chết. Sau khi đâm chết người Lý Khải Minh toan bỏ chạy và khi bị chặn lại thì tuyên bố "Bố tôi là Lý Cương."

Lý Khải Minh

Lý Khải Minh đã bị đưa xét xử cho dù có cha là phó cảnh sát huyện ở Hồ Bắc

Ông Cương là một phó công an huyện tại tỉnh Hồ Bắc.

Vụ khác liên quan tới thiếu niên 15 tuổi Lý Thiên Dực, con của một quan chức quân đội cao cấp, lái xe khi chưa có bằng. Khi bị một xe khác cản đường, thiếu niên này đã ra khỏi xe và đánh người lái xe đang cản đường.

Trong một vụ khác, một sinh viên của Học viện Điện ảnh Bắc Kinh lái xe Audi, xe thường của các quan chức Trung Quốc, đã cãi vã khi tìm chỗ đỗ xe và vật lộn với một người quét dọn 43 tuổi khiến ông này chết khi vào viện.

Michael Anti, một blogger và chuyên gia bình luận chính trị được Foreign Policy dẫn lời nói:

"Giới giàu có đang trở thành triều đại.

"Giờ người Trung Quốc nhận ra rằng "mình có được vị trí không phải vì chịu khó hay bằng cấp mà vì bố mình."

Còn Giáo sư Patrick Chovanec của Đại học Thanh Hoa nói:

"Giờ có cả một tầng lớp giàu lên vì họ là ai chứ không phải họ làm gì - và họ theo các luật lệ riêng."

'Chuyện cổ tích'

Tác giả Larson nói khả năng có thể mua bán bất động sản và giành được các hợp đồng của chính phủ là đòn bẩy tốt nhất tạo sự giàu có.

Nhưng nhà báo nói chính những người đang giàu có và nhiều quan hệ mới tiếp cận được những cơ hội này.

Giáo sư Chovanec cũng được dẫn lời nói:

"Giờ người Trung Quốc nhận ra rằng "mình có được vị trí không phải vì chịu khó hay bằng cấp mà vì bố mình."

Blogger Michael Anti

"Chính phủ ôm đồm quá nhiều thứ trong nền kinh tế Trung Quốc... Chính phủ có quyền lực lớn trong việc quyết định người thắng, kẻ thua và bạn là ai và biết ai quan trọng hơn tất cả những thứ khác.

"Và những người ở tầng trên ngày càng đứng trên pháp luật."

Nhưng điều này, bà Larson nói, trái với câu chuyện cổ tích lạc quan của Trung Quốc trong 30 năm qua mà Đảng Cộng sản tích cực tuyên truyền.

Bà Larson kết bài viết với ý kiến của người bạn làm báo ở Thẩm Dương: "Người dân không còn tin rằng người ta có thể thăng tiến nhờ làm việc chăm chỉ và thành thực ở Trung Quốc."

Saturday 17 December 2011

Giáng Sinh thanh bình và những món quà “ngọt ngào”

(VienDongDaily.Com - 14/12/2011)
Sau thế kỷ thứ 8, một số người Châu Âu phong phanh biết đến đường. Cùng thời gian này, các tài liệu về việc trồng mía và làm đường ở vùng Trung Đông bắt đầu xuất hiện. Ba Tư và Ấn Độ là hai khu vực biết đến việc làm đường trước tiên.
Anvi Hoàng/Viễn Đông

Nhiều người hay nghĩ tới Giáng Sinh mà liên tưởng đến những cảm giác ấm cúng, thanh bình, và những kỷ niệm ngọt ngào. Hãy tưởng tượng một bức tranh Giáng Sinh như sau: một cặp vợ chồng trẻ ngồi bên lò sưởi, cạnh cây thông xanh được thắp đèn sáng trưng, dưới chân cây thông là những gói quà đẹp mắt, họ nhìn ra cửa sổ nhìn tuyết rơi, và lắng nghe nhạc thánh ca tràn ngập căn phòng với người thân - thế là đủ ấm cúng, thanh bình và ngọt ngào rồi.


Siêu thị mùa Giáng Sinh - ảnh: Anvi Hoàng/Viễn Đông

Lại có một câu chuyện thú vị về sự “ngọt ngào” như sau - là ngọt ngào từ đường đấy: từ thuở nào con người đã biết đến vị ngọt của trái cây, mật ong. Tuy nhiên, không phải từ lúc khai sinh lập địa con người đã có đường để ăn. Vị ngọt của đường mía là một khám phá về sau này của con người.

Vài nét về lịch sử của đường mía
Cây mía được trồng thuần hóa vào khoảng năm 8000 trước Công Nguyên (CN) ở New Guinea. Hai ngàn năm sau, cây mía được đem đến Philippines, Ấn Độ, và Indonesia. Tài liệu tham khảo cổ xưa nhất về việc lấy đường từ mía được tìm thấy trong văn học Ấn Độ khoảng năm 400-350 trước CN, trong đó có nhắc đến “nước uống lên men với đường, bánh bột gạo với sữa và đường”, nhưng chúng ta không có chứng cớ rõ ràng để có thể khẳng định đây có phải là đường kết tinh hay không. Điều chính xác chúng ta biết được ngày nay là vào khoảng năm 500 sau CN, đường kết tinh đã được sản xuất với số lượng nhỏ ở Ấn Độ và người La Mã đã biết đến nó. Sau thế kỷ thứ 8, một số người Châu Âu phong phanh biết đến đường. Cùng thời gian này, các tài liệu về việc trồng mía và làm đường ở vùng Trung Đông bắt đầu xuất hiện. Ba Tư và Ấn Độ là hai khu vực biết đến việc làm đường trước tiên. Đường từ Ba Tư được cung cấp cho Bắc Phi, Trung Đông, và Châu Âu trong nhiều thế kỷ.
Có thể nói người Ả Rập đi đến đâu thì đường và kỹ thuật sản xuất đường đi theo họ đến đó – như người ta nói: “Đường theo gót kinh Koran”. Sau các cuộc Thánh Chiến vào thế kỷ 13, người Châu Âu trở thành nhà sản xuất đường - nói đúng hơn là họ kiểm soát những nhà sản xuất đường trong những vùng bị trị - khi họ chinh phục các nước ở khu vực Trung Đông. Nhiều người tin rằng công nghiệp đường do người Ả Rập sáng lập khác với công nghiệp đường do người Châu Âu phát triển, ở chỗ công nghiệp đường Ả Rập không dã man và đẫm máu như Châu Âu. Từ khi người Châu Âu nắm phần sản xuất đường, kỹ nghệ mua bán nô lệ phát triển mạnh hơn và kéo dài 400 năm là để phục vụ cho công nghiệp sản xuất đường. Có thể tìm thấy sự liên hệ chặt chẽ giữa việc sản xuất đường và chế độ nô lệ thiết lập ở Crete, Cyprus, Morocco. Việc sản xuất ở những nơi này chỉ ngừng khi việc sản xuất đường ở Thế Giới Mới (Jamaica, Caribbean) trở thành thống trị.

Đường với lịch sử nô lệ và lịch sử thuộc địa

Nhu cầu về đường của các đế quốc Châu Âu ngày càng tăng sau thế kỷ 13 và việc sản xuất đường được chuyển hoàn toàn sang tay những quyền lực Châu Âu. Các đế quốc Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đều đi chinh phục hòng tìm kiếm đất để lập đồn điền mía và sản xuất đường. Sau năm 1655 khi đế quốc Anh thiếp lập những thuộc địa đầu tiên, giới quý tộc và nhà giàu ở Anh được nếm mùi đường thường xuyên hơn, nhưng đường vẫn còn là một món hàng “xa xỉ”. Đường càng trắng càng mắc tiền. Đế quốc Anh lúc này có luật để kiểm soát sự lưu chuyển của đường và các món hàng được dùng để trao đổi với đường. Vì quy trình sản xuất đường phức tạp và tốn kém, do đó không phải ngẫu nhiên mà lịch sử đường gắn liền với lịch sử nô lệ ở các xứ thuộc địa. Một tam giác thương mại được thành lập giữa Anh-Châu Phi-Thế Giới Mới: hàng hóa từ Thế Giới Mới được bán cho Châu Phi, nô lệ Châu Phi được bán sang Thế Giới Mới, đường từ Thế Giới Mới được bán sang Anh.
Đến đầu thế kỷ 18, đường vẫn còn là độc quyền của một nhóm thiểu số người giàu, trong lúc thức ăn hàng ngày của người bình dân vẫn chỉ là ngũ cốc, đậu, hạt, một ít sữa, bơ, phó mát, rất ít thịt, cá. Nhiều người còn không đủ ăn. Đường cũng được dùng trong y học, dùng làm gia vị, hoặc vật trang trí (đường được trộn với dầu, đậu, nước, bột; nặn thành hình; được sơn phết hoặc trang trí; rồi trưng bày như tác phẩm điêu khắc trước khi được ăn). Chỉ có gia đình hoàng tộc mới mua nổi đường để làm vật trang trí như thế này.
Nhưng đến giữa thế kỷ 18, đường đã trở thành dễ sản xuất hơn. Việc sản xuất đường trở thành quan trọng hơn đối với tầng lớp thống trị Anh và ảnh hưởng đến các quyết định về chính trị, quân sự bởi vì người Anh dần dần tiêu thụ nhiều đường hơn và càng ngày càng muốn nhiều đường hơn nữa. Người nào nắm nguồn sản xuất và tiêu thụ đường là người nắm quyền lực.


Nay, đường vàng mắc hơn đường trắng - ảnh: Anvi Hoàng/Viễn Đông

Cũng trong thế kỷ 18, chế độ nô lệ ở Anh được bãi bỏ. Từ đó, thị trường đường thế giới mở rộng cho tự do cạnh tranh. Đến thế kỷ 19, người dân thường ở Anh đã quen với mùi vị của đường, ví dụ uống trà với đường, ăn bánh mì với mứt.

Ngày nay, đường rẻ mạt. Người ta có thể tìm thấy đường trong thức ăn, nước uống ngọt; và cả ở những sản phẩm người ta thường nghĩ không có đường trong đó ví dụ bánh mì, ketchup, bơ đậu phụng, v.v..


Cereal cũng rất ngọt - ảnh: Anvi Hoàng/Viễn Đông


Dressing chứa nhiều đường hơn bạn nghĩ! - ảnh: Anvi Hoàng/Viễn Đông

Tiêu thụ đường trong xã hội Mỹ ngày nay
Trong nghiên cứu về lịch sử ăn uống của con người, không có người nào lại từ chối đường ngay từ khi nó mới được đưa vào danh sách những thức ăn của con người. Ngay cả những người dị ứng với đường như người Eskimo ở Alaska cũng “kết” với đường mà không quan tâm đến hậu quả của cách thức ăn uống mới này.


Cám dỗ của trẻ con - ảnh: Anvi Hoàng/Viễn Đông

Từ ý nghĩa tượng trưng cho quyền lực của vua chúa cho đến sản phẩm thương mại ngày nay, ý nghĩa và chức năng của đường đã trải qua một chặng đường dài. Ngày nay, ai cũng phải công nhận sự thừa mứa của đường. Trên truyền hình còn có những cuộc thi dùng đường làm nguyên liệu chính để nặn tượng trang trí. Bức tượng thắng giải không nói gì về sự giàu có của người làm ra nó mà chỉ là về khả năng điêu luyện và sáng tạo khi sử dụng nguyên vật liệu đường như thế nào. Và toàn bộ cuộc thì chỉ là một trong những hình thức giải trí để thu hút khán giả xem tivi và để các nhà tài trợ quảng cáo sản phẩm của mình.


Tượng trang trí làm bằng đường - ảnh tham khảo: Wikipedia

Con người không cưỡng lại được vị ngọt của đường. Cho nên, đường được dùng nhiều hơn và phổ biến hơn để tạo ra mùi vị hấp dẫn trong các sản phẩm đúng ra là có lợi cho sức khỏe, để cuối cùng chúng ta có nước trái cây có đường, nước uống thể thao ngọt, nước uống tăng lực có đường, trà có đường, cà phê có đường.
Nếu như cách đây 100 năm, một người Mỹ tiêu thụ trung bình 15 gram đường phần lớn từ trái cây mỗi ngày, thì ngày nay, một người Mỹ tiêu thụ gần 200 gram đường mỗi ngày, chủ yếu là từ soda. Có thể thấy đường cũng đóng một phần quan trọng trong cuộc sống hiện đại, nhưng theo một kiểu khác hẳn. Người tiêu thụ đã biết được rằng uống nhiều soda hoặc tiêu thụ nhiều đường được xem là dẫn đến nguy cơ lớn có hại cho sức khỏe. Vì vậy người ta bắt đầu “đấu tranh” về đường.

Các cuộc tranh luận về “đường”
Từ năm 1980 tỉ lệ người béo phì ở Mỹ tăng gấp đôi. Năm 2001, Tổng Y Sĩ Hoa Kỳ (Surgeon General) kêu gọi mọi người hành động để phòng và cắt giảm hiện tượng quá cân và béo phì. Tháng 2 năm 2002, học khu quận Oakland ở California cấm bán soda và kẹo trong trường. Tháng 8 cùng năm, Hội Đồng Học Khu Los Angeles bỏ phiếu bầu đồng ý loại bỏ nước uống có gas ra khỏi thực đơn trong căn tin của trường học và cấm bán nước uống có gas trong các máy bán tự động ở trường vào năm 2004. Đây là những hành động đầu tiên mang tính chính trị chống lại các đại công ty nước giải khác và có tính cảnh tỉnh người dân về việc tiêu thụ đường nhằm bảo vệ sức khỏe cho con em mình.
Kết quả của các cuộc tranh đấu là vào đầu năm học 2009-2010, 14 tiểu bang trên toàn nước cấm bán soda trong các máy bán tự động ở trường, 19 tiểu bang cấm soda trong căn tin trường, 6 tiểu bang cấm tất cả các loại nước uống có đường trong các máy bán tự động ở trường và 6 tiểu bang cấm ở căn tin. Trong lúc đó, 25 tiểu bang không có giới hạn việc bán nước uống có đường trong máy bán tự động ở trường, và 22 tiểu bang có một số giới hạn về thức uống trong căn tin.
Tuy nhiên, nghiên cứu mới cho thấy rằng các biện pháp ngăn cấm không có hiệu quả trong việc giảm mức độ tiêu thụ nước uống có đường ở trường học. Ở những tiểu bang cấm soda, 30% học sinh từ lớp 5 đến lớp 8 vẫn có thể mua nước uống có đường, như nước uống thể thao hoặc nước trái cây có đường, y như các học sinh ở những nơi không bị cấm gì cả. Ở những tiểu bang cấm tất cả các loại nước uống có đường, học sinh vẫn có thể mua được các loại nước uống này ngoài trường hoặc thậm chí có khi trong trường.


Nước uống có đường đầy dẫy - ảnh: Anvi Hoàng/Viễn Đông

Do đó, vấn đề tiêu thụ đường vẫn là một vấn đề lớn của xã hội đang mong tìm kiếm những biện pháp để bảo vệ sức khỏe cho người dân. Thậm chí một số nhà làm luật ở California đã đệ trình lên Nghị Viện California dự luật đánh thuế soda nhưng dự luật này không được xem tới và đã được “ngâm” trên kệ, chưa biết số phận sẽ ra sao.

Tìm “đường” ngoài chợ
Tiêu thụ quá nhiều đường là một trong những lý do dẫn đến có nguy cơ cao bị quá cân hoặc bị béo phì. Ngày nay, 1/3 người lớn ở Mỹ và 17% con em từ 2-19 tuổi bị béo phì. Người quá cân hoặc béo phì có nguy cơ cao bị bịnh tiểu đường, bịnh tim, hoặc đứt mạch máu não, v.v..


Một nhãn thức ăn của bơ đậu phụng - ảnh: Anvi Hoàng/Viễn Đông


Bạn có thấy “đường" trên nhãn này không? - ảnh: Anvi Hoàng/Viễn Đông

Vì những dữ liệu về sức khỏe phổ biến như vậy mà ngày nay có lẽ người ta không còn chú ý mấy đến vị ngọt của đường nữa. Chữ “đường” hay đi chung với những chữ như béo phì, lên cân, sức khỏe. Vì người dân đã có ý thức hơn về việc tiêu thụ đường, các công ty phải tìm cách ngụy trang để tiếng xấu của đường không ảnh hưởng đến việc bán sản phẩm của họ. Trung bình, một người dân Mỹ tiêu thụ 3 pound đường trong một tuần, nhưng không ai ý thức được đường đến từ nguồn thức ăn nào. Tìm hiểu các nhãn hiệu thức ăn mà xem, nhà sản xuất đã khéo léo dùng nhiều danh từ khác nhau để chỉ định nó, nếu không biết thì sẽ bị lầm mà cho rằng sản phẩm mình mua không chứa đường.
Ngày nay, đường được sản xuất từ nhiều nguồn khác nhau và trong các sản phẩm tiêu thụ mang nhiều tên gọi khác nhau: glucose, fructose, corn syrup, glucose syrup, dextrose syrup, sucrose, maltose, high-fructose corn syrup, saccharose, molasses, lactose. Mang tên gì đi nữa thì tất cả đều là đường. Nếu muốn biết những thức ăn mình dùng nhiều đường hay ít thì phải đọc kỹ các nhãn hiệu thức ăn ở mặt sau sản phẩm, và đọc kỹ phần “thành phần chế biến” (ingredients) của thức ăn. Bởi vậy người ta hay nói đùa, nhưng thật, là “nếu trong thức ăn có chứa những chất mà đọc qua ta không hiểu là chất gì thì đừng ăn!”. Cũng là một lời khuyên hay!

* Những món quà “ngọt ngào”

Mùa Giáng Sinh, người ta vẫn hay tặng nhau những món quà “ngọt ngào”. Bánh kẹo Việt Nam nói chung không ngọt bằng bánh kẹo Mỹ, nhưng ăn riết cũng lên cân thôi. Vả lại, chế độ ăn uống ở Mỹ khác, khẩu phần cũng lớn hơn. Người Châu Á nói chung và người Việt Nam nói riêng đã có nguy cơ bị bịnh tiểu đường cao hơn người Mỹ bởi vì cơ thể người Việt không thích nghi với việc hấp thụ và tiêu thụ lượng thức ăn đồ uống “vĩ đại” kiểu Mỹ.


Ai mà không thèm cho được! - ảnh: Anvi Hoàng/Viễn Đông


Quá ngọt ngào? - ảnh: Anvi Hoàng/Viễn Đông

Do đó, người nào muốn giữ eo, giữ sức khoẻ thì mùa Giáng Sinh này, “ngọt ngào” của tình cảm thì nhận, chứ ngọt ngào của đường thì cẩn thận. Ăn ít đường đi nhưng bù lại, ta tìm thấy ngọt ngào từ những hình thức khác chẳng phải là một công đôi ba chuyện là gì!

Tham khảo:
Sweetness and Power: The Place of Sugar in Modern History, tác giả Sidney W. Mintz.
http://archpedi.ama-assn.org/
http://www.cdc.gov/obesity/data/trends.html

Nguồn: http://www.viendongdaily.com/giang-sinh-thanh-binh-va-nhung-mon-qua-ngot-ngao-GlM85aGu.html
Anvi Hoàng/Viễn Đông
source
Vien Dong Daily

Monday 12 December 2011

Nỗi khổ của Thủ tướng Anh và miếng da lừa châu Âu


Nguyễn Giang Nguyễn Giang | 2011-12-12, 17:06

Bình luận (0)

Làm thủ tướng một cường quốc lớn tại châu Âu như ông David Cameron cũng có lúc phải thốt lên 'Không thể chịu được nữa'.


Tổng thống Pháp né tránh, không bắt bàn tay chìa ra của Thủ tướng Anh

Ông Nicolas Sakozy không bắt tay ông David Cameron đêm 9/12 tại Brussels

Tôi xin kể lại chuyện đi đàm phán "một đêm lịch sử" của thủ tướng Anh để các bạn thấy chốn cao sang cũng có cảnh bức bối vì cơn sóng gió tiền tệ.

Một ngày trắc trở

Chiều thứ Năm tuần qua, ông Cameron còn kịp đến trường của con trai xem diễn kịch Giáng Sinh.

Sau đó, ông bay từ một căn cứ của Không quân Hoàng gia Anh (RFA) sang Brussels phó hội.

Chuyến bay rung bần bật vì gió bão bất thường, và vì phi cơ quá nhỏ, chỉ chở đủ ông Cameron và 4-5 cộng sự thân tín nhất.

Ông đến Brussels lúc chập tối và lao ngay vào cuộc gặp với tân Thủ tướng Ý, Mario Monti, rồi nói chuyện trước hội nghị EU với lãnh đạo Anh và Pháp.

Tại đây, theo tường thuật của báo chí, ông Cameron đã vấp ngay phải thái độ lạnh lùng, thậm chí thù địch của Tổng thống Pháp, Nicolas Sarkozy.

Mới nêu ra đòi hỏi khiêm tốn là bảo vệ Thị trường tài chính City of London hiện đem lại 10% GDP cho Anh và là cầu nối về tài chính giữa châu Âu với các quốc gia tiếng Anh trên thế giới, gồm cả Mỹ, ông Cameron bị chỉ trích thẳng mặt.

Thủ tướng Đức, bà Angela Merkel, người nắm hầu bao to nhất cho mọi dự án cứu euro, bác bỏ một giải pháp riêng cho Anh nhưng Pháp thì tệ hơn, lập tức tung ra trò bắn tin cho nhà báo.

Thủ tướng Anh bước vào hội nghị lãnh đạo EU lúc nửa đêm trong bầu không khí nồng nặc cả các lời phỉ báng.

Một quan chức phái đoàn Pháp chế nhạo với báo chí rằng ông Cameron như kẻ "đến hội đổi vợ mà không mang theo vợ".

Nếu bạn chưa biết thì xin ghi nhận 'wife swapping club" là trò chơi các cặp vợ chồng dẫn nhau đến câu lạc bộ yêu đương tự do, "tôi với vợ anh, anh với vợ tôi".

Quan chức Pháp công kích thô (bỉ) như thế tại một hội nghị cao cấp của EU nên chẳng trách đa phần dư luận Anh đầu tuần này ủng hộ quyết định rời xa Brussels của Thủ tướng Cameron.

Đi quanh trong phòng hội nghị giờ nghỉ, có lúc ông Cameron muốn bắt tay ông Sarkozy thì bị ông kia quay đi.

Hết hội nghị, ông Cameron tình cờ gặp nữ thủ tướng Đức trong thang máy và trao đổi mấy câu không nồng ấm nhưng cũng không căng thẳng.

Cao điểm của câu chuyện là khi thang máy xuống tới lầu dưới, ông Cameron chỉ vừa kịp bước ra thì đã thấy ngay ông Sarkozy họp báo tố cáo Anh là ích kỷ, là cản trở kế hoạch cứu euro.

Mới hôm nào thôi chính ông Sarkozy còn sang Anh để cảm ơn BBC và nước Anh đã giúp Tướng Charles de Gaulle thời kháng chiến chống Đức.

Tôi có được mời dự đoàn đi đón ông ta và cô vợ tại trụ sở phía Tây của BBC và nghe ông Sarkozy say sưa ca ngợi tình thân London - Paris, gọi là 'entente cordiale' - liên minh từ tâm mà ra.

Nhưng tới giờ thì ôi thôi, tình hữu nghị Anh - Pháp nay còn đâu.

Tất cả cũng chỉ vì tranh cãi nhau quanh đồng tiền euro mà Pháp thực ra cũng chẳng có nhiều, và Anh thì từ xưa đã không muốn vào.

David Cameron

Thủ tướng Anh đơn độc tại hội nghị của EU nhưng nói ông 'bảo vệ quyền lợi quốc gia'

Người ta tin rằng ông Sarkozy muốn đẩy ông Cameron nhằm 'giành chỗ' cạnh bà Merkel.
Nắm trong tay cả đội quan chức EU đa số là người Pháp, hoặc thân Pháp nên có chuyện gì thì Paris dễ bề chỉ đạo, miễn sao Berlin chịu mở hầu bao.

Dự án châu Âu đi từ Thị trường chung sang Tiền tệ chung và logic tiếp theo phải là Quyền lực chung.

Khủng hoảng EU một phần cũng vì đồng tiền thì chung như lại vẫn nhiều chủ quyền quốc gia khác nhau (one currency, many sovereignties).

Pháp và Đức thúc đẩy liên minh chặt hơn là đúng chiến lược nhưng cách làm thì thật nhiêu khê và chưa chắc đã thực hiện được.

Và Anh Quốc từ xưa với lý do lịch sử, pháp luật và thương mại, chưa bao giờ thực sự muốn là một phần của dự án đó.

Co kéo quẩn quanh

Số phận đồng euro khiến tôi nhớ lại chuyện "Miếng Da Lừa" của văn hào Pháp Honore de Balzac.

Nó giúp nhân vật Raphaël đạt được giàu sang, quyền lực nhưng càng đòi thì da càng ngắn lại.

Khuôn khổ của miếng da lừa đi ngược chiều với ham muốn hạnh phúc của người chủ.

Sức mạnh kinh tế của châu Âu và đồng euro cũng thế, có ít thì làm sao đủ chia ra cưu mang Hy Lạp, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha đang nợ đầm đìa?

Kể từ năm 1973, khi Anh quyết định vào EU, và qua thời Bà Đầm Sắt Margaret Thatcher, chưa lãnh đạo Anh nào dám thẳng thừng phủ quyết một hiệp ước tiền tệ (chưa có) của châu Âu.

Một số báo trung hữu Anh nay nói quan hệ với EU đã vào thời ly thân tuy chưa ly dị và Anh nên bỏ qua Brussels, tự tin với truyền thống dấn thân qua các đại dương, hướng ra châu Á, sang Nam Mỹ để tìm kiếm tăng trưởng.

Xét ông Cameron đúng hay sai còn tùy vào tình hình tới đây tại khu vực euro.

Nhưng một châu Âu già đi, đông quan chức, nhiều thuế má, nặng gánh phúc lợi xã hội mà vẫn cứ nhiều hội họp hướng nội, ít nhìn ra ngoài thì không hiểu lối thoát sẽ đến từ đâu?

Miếng da lừa này chắc sẽ còn co lại vì ai cũng đòi được phần sung sướng mà chẳng chịu hy sinh.

Ông Cameron ít ra cũng đáng được khen vì tỏ thái độ không thể chơi mãi cuộc kéo co đó.
source
BBC Vietnamese

Monday 14 November 2011

Thị trấn ma Bodie không bóng người



(VienDongDaily.Com - 11/11/2011)
Tương truyền, năm 1859, ông William S. Bodey tìm thấy vàng ở gần chỗ bây giờ gọi là Bodie Bluff.
Nick Út (gửi riêng cho Viễn Đông)


Bodie là một thị trấn của những người đi tìm vàng ở California khoảng cuối thế kỷ 19. Thế rồi, tội phạm xảy ra, nơi này bỗng trở nên hoang vắng, người ta không còn dám ở đây nữa, và Bodie trở thành một thị trấn hoang. Trong hình, chiếc xe cổ rỉ sét, bỏ hoang giữa đám cỏ um tùm ở Bodie

BODIE, California - Tọa lạc cách xa lộ US Hwy-395 chừng 13 dặm ở miền Trung California, thị trấn Bodie ngày nay còn khoảng 100 ngôi nhà, kiến trúc trụ lại với thời gian. Tương truyền, năm 1859, ông William S. Bodey tìm thấy vàng ở gần chỗ bây giờ gọi là Bodie Bluff. Một cơ xưởng được thành lập năm 1861 và thị trấn bắt đầu lớn dần. Ban đầu có chừng 20 thợ mỏ, sau lên tới gần 10.000 người năm 1880. Có vàng, có tiền, người ta lao vào những cuộc ăn chơi; có đến 65 quán rượu, nhiều lầu xanh, sòng bạc, ổ thuốc phiện ở Bodie vào lúc đó. Dĩ nhiên, tội phạm đầy dẫy, giết chóc tràn lan. Riết rồi người ta bỏ đi hết. Năm 1962, California cho thành lập công viên di tích lịch sử của tiểu bang tại nơi này, được đánh giá là một trong những thị trấn hoang còn khá nguyên vẹn, được bảo tồn tốt nhất ở Hoa Kỳ.

Tiền cắc ném vào dĩa cầu may - ảnh: Nick Út (gửi riêng cho Viễn Đông)


Những ngôi nhà hoang trong thị trấn ma Bodie - ảnh: Nick Út (gửi riêng cho Viễn Đông)


Nhà thờ Methodist trong thị trấn ma Bodie - ảnh: Nick Út (gửi riêng cho Viễn Đông)


Thị trấn ma Bodie trong ánh tà dương - ảnh: Nick Út (gửi riêng cho Viễn Đông)

Nguồn: http://www.viendongdaily.com/thi-tran-ma-bodie-khong-bong-nguoi-sQQqQGoV.html
Nick Út (gửi riêng cho Viễn Đông)
source
VienDong Daily

Friday 21 October 2011

Ngày tàn bạo chúa

Những năm tháng cai trị của Gaddafi

Cập nhật: 15:05 GMT - thứ năm, 20 tháng 10, 2011

Ông Gaddafi vào năm 1969 và 2008

Cú đảo chính quân sự đưa ông Muammar Gaddafi lên nắm quyền cách đây 40 năm

Ông Muammar Gaddafi lên nắm quyền ở Libya vào tháng Chín năm 1969 ở cương vị lãnh đạo sau cuộc đảo chính quân sự không đổ máu, lật đổ Vua Idris được người Anh ủng hộ.

Khi đó ông 27 tuổi và đã lấy cảm hứng từ Tổng thống Ai Cập Gamal Abdul Nasser. Ông dường như phù hợp với mẫu người dân tộc chủ nghĩa của vùng Ả Rập, xuất phát từ quân đội và trở thành Tổng thống. Tuy nhiên, ông tồn tại lâu hơn những người cùng thời với ông.

Trong thời gian gần 41 năm nắm quyền ông đã tạo ra một hệ thống chính quyền của riêng mình, hỗ trợ các nhóm vũ trang cực đoan khác nhau như nhóm IRA ở Bắc Ireland và nhóm Sayyaf Abu ở Philippines. Ông cũng là người đã cầm quyền một chính phủ có thể được xem là chế độ độc tài, độc đoán và tàn bạo nhất Bắc Phi.

Trong những năm cuối cùng dưới sự cai trị của ông, Libya nổi lên sau khi bị quốc tế cô lập theo sau vụ đánh bom chuyến bay Pan Am 103 trên bầu trời Lockerbie ở Scotland vào tháng Mười Hai năm 1988.

Đất nước này một lần nữa lại được các chính phủ phương Tây ve vãn và đã thu hút sự chú ý của các công ty nhờ dự trữ năng lượng khổng lồ của mình và các hợp đồng béo bở.

Libya

  • Đại tá Muammar Gaddafi lãnh đạo Libya từ năm 1969
  • Dân số 6,5 triệu; diện tích đất 1,77 triệu cây số vuông
  • Dân số với tuổi trung bình 24,2, và tỷ lệ biết chữ 88%
  • Tổng thu nhập quốc dân bình quân đầu người: 12.020 $

(Nguồn: Ngân hàng Thế giới 2009)

Cuộc nổi dậy đã lật đổ ông Gaddafi bắt đầu tại Libya vào tháng Hai năm 2011 ở thành phố Benghazi, thành phố lớn thứ hai nước này, một thành phố mà ông đã bỏ quên và người dân tại đó ông không hề tin tưởng trong suốt quá trình cai trị của mình.

Jamahiriya

Đại tá Gaddafi sinh ra trong một gia đình Bedouin ở Sirte năm 1946.

Ông luôn luôn sử dụng nguồn gốc bộ tộc, khiêm tốn của mình, thích đón tiếp quan khách trong lều của ông và luôn dựng lều trong các chuyến viếng thăm ngoại quốc.

Tính hợp pháp của ông phụ thuộc vào trước hết vào tinh thần chống thực dân của ông, và sau đó vào việc giữ nước trong cuộc cách mạng.

Triết lý chính trị của ông, được giải trình dài dòng trong Sách Xanh, là "chính phủ của quần chúng".

Năm 1977, ông Gaddafi tuyên bố một nhà nước Libya "Jamahiriya" - một từ mới có nghĩa là một nhà nước của quần chúng.

Lý thuyết là Libya đã trở thành một nền dân chủ của nhân dân, được điều hành thông qua các Hội đồng Cách mạng Quần chúng.

Đại tá Muammar Gaddafi


  • Sinh ra tại Sirte, Libya ngày 7 tháng Sáu năm 1942
  • Tham dự học viện quân sự tại Libya, Hy Lạp và Anh
  • Nắm quyền vào ngày 1 Tháng Chín 1969
  • Sách Xanh được công bố vào năm 1975
  • Kết hôn hai lần, có bảy người con trai và một con gái

Trên thực tế, tất cả các quyết định quan trọng và tài sản nhà nước vẫn nằm dưới sự kiểm soát chặt chẽ của ông.

Các lý thuyết xã hội

Ông Gaddafi là một người thao túng chính trị có kỹ năng, dùng các bộ lạc chống lại lẫn nhau và chống lại các cơ quan nhà nước hoặc các chính thể. Ông cũng phát triển một sự sùng bái cá nhân khá mạnh.

Sự cai trị của ông dần dần đã trở nên có đặc tính bảo trợ và kiểm soát chặt chẽ của một nhà nước cảnh sát.

Giai đoạn tồi tệ nhất tại đất nước Libya có lẽ là những năm 1980, khi Đại tá Gaddafi thử nghiệm với người dân các lý thuyết xã hội của ông.

Một phần trong "cuộc cách mạng văn hóa" của ông là cấm tất cả các doanh nghiệp tư nhân hoạt động và sách vở không lành mạnh thì bị đốt cháy.

Ông cũng đã ra lệnh ám sát những người bất đồng chính kiến ở nước ngoài. Tự do ngôn luận và lập hội hoàn toàn bị dẹp bỏ và ngoài ra còn vô số những hành vi đàn áp bạo lực khác.

Ông Gaddafi năm 1985

Đại tá Gaddafi thử nghiệm với người dân các lý thuyết xã hội vào những năm 1980s

Những việc này được theo sau là một thập kỷ cô lập của phương Tây sau khi vụ đánh bom Lockerbie.

Đối với người dân Libya chỉ trích Đại tá Gaddafi, tội ác lớn nhất của ông có thể là việc đã chiếm dụng và phung phí tiền của vào các chuyến đi nước ngoài và chuyện tham nhũng.

Với dân số chỉ có 6 triệu người và các khoản thu nhập từ dầu lửa hàng năm tới 32 tỷ đô la Mỹ trong năm 2010, tiềm năng của Libya là rất lớn. Tuy nhiên hầu hết người dân Lybia không cảm thấy sự giàu có của đất nước mình và điều kiện sống có thể khiến gợi nhớ tới các nước nghèo hơn Libya rất nhiều.

Tình trạng thiếu công ăn việc làm bên ngoài chính phủ có nghĩa là tỷ lệ thất nghiệp được ước tính là 30% hoặc nhiều hơn.

Hình thức chủ nghĩa xã hội đặc biệt của Libya cung cấp miễn phí giáo dục, y tế và trợ cấp nhà ở và giao thông vận tả được bao cấp nhưng mức lương rất thấp và sự giàu có của nhà nước và lợi nhuận từ đầu tư nước ngoài chỉ đem lại lợi lộc cho một tầng lớp thượng lưu nhỏ.

Năm 1999, nhà lãnh đạo Libya đã trở lại chính trường quốc tế sau thời gian bị cô lập gần như hoàn toàn sau khi ông chấp nhận trách nhiệm vụ đánh bom Lockerbie.

Sau vụ tấn công 11 tháng Chín năm 2001, ông ký với chính phủ Mỹ cái gọi là "cuộc chiến chống khủng bố". Ngay sau khi Mỹ xâm chiếm Iraq năm 2003, Libya đã tuyên bố từ bỏ vũ khí hạt nhân và các chương trình vũ khí sinh học. Cả hai quyết định này bị những người chỉ trích Libya nhìn nhận một cách hoài nghi.

Trong những năm cuối cùng dưới sự cai trị của ông, khi phát sinh câu hỏi người kế nhiệm ông, hai con trai ông dường như công khai cạnh tranh và làm hại lẫn nhau trong cuộc cạnh tranh này.

Ảnh hưởng của Saif al-Islam, người con trai lớn vốn quan tâm đến các phương tiện truyền thông và các vấn đề nhân quyền, dường như suy yếu trước ảnh hưởng ngày càng gia tăng của Mutassim, người có một vai trò đầy quyền lực trong lĩnh vực an ninh.

Vào đầu năm 2011, được khuyến khích từ các nước láng giềng phía tây và phía đông, người dân Libya đã nổi dậy chống lại 40 năm cầm quyền tàn bạo của nhà lãnh đạo này.

source

RSS

Thứ sáu, 21/10/2011, 16:48 GMT+7

Khoảnh khắc đẫm máu cuối cùng của Gadhafi

Cửa cống bê tông nằm bên vệ đường, nơi Gadhafi và những vệ sĩ cuối cùng ẩn náu. Ảnh: AFP.
Sau khi bắn chết 5 vệ sĩ cuối cùng của Gadhafi ngay ngoài miệng cống, các tay súng NTC lôi ông này từ trong cống ra ngoài trong tình trạng bị thương. Ảnh: AP.
Một phần đoàn xe của Gadhafi bị máy bay tấn công cháy đen gần một trạm hạ thế ở Sirte.
Sau khi bị lôi ra từ ống cống, Gadhafi bị thương đầm đìa máu đang cố xin đám đông tay súng vây quanh tha mạng. Hình lấy từ một clip quay bằng điện thoại di động.
Các tay súng dùng vũ lực lôi Gadhafi trên đường, một số đánh vào mặt ông này trong tình trạng thương tích đầy mình.
Gương mặt hoảng loạn của Gadhafi trong vòng vây của đám đông đang hò hét.
Gadhafi vùng vẫy trong tuyệt vọng khi bị các thanh niên lôi trên đường và ấn lên mũi một chiếc xe bán tải. Một số liên tục đánh vào người cựu lãnh đạo Libya.
Gadhafi bị đè ngửa trên mũi chiếc xe.
Các tay súng truy đuổi và bắn chết Gadhafi đến từ thành phố Misrata. Họ nhanh chóng đưa xác ông này lên một chiếc xe cứu thương để chạy từ Sirte về Misrata ăn mừng.
Đám đông đông người Libya vây quanh xác Gadhafi và liên tục dùng điện thoại để chụp ảnh. Ảnh: AFP.
Đám đông đông vây quanh xác Gadhafi và liên tục dùng điện thoại để chụp ảnh. Ảnh: AFP.
Xác Gadhafi được đặt trên sàn xe bê bết máu trên đường chạy về Misrata ngày 20/10.

source
http://vnexpress.net/gl/the-gioi/phan-tich/2011/10/toan-canh-ket-cuc-dam-mau-cua-gadhafi/page_2.asp

Ngày tàn bạo chúa



Những năm tháng cai trị của Gaddafi

Cập nhật: 15:05 GMT - thứ năm, 20 tháng 10, 2011

Ông Gaddafi vào năm 1969 và 2008

Cú đảo chính quân sự đưa ông Muammar Gaddafi lên nắm quyền cách đây 40 năm

Ông Muammar Gaddafi lên nắm quyền ở Libya vào tháng Chín năm 1969 ở cương vị lãnh đạo sau cuộc đảo chính quân sự không đổ máu, lật đổ Vua Idris được người Anh ủng hộ.

Khi đó ông 27 tuổi và đã lấy cảm hứng từ Tổng thống Ai Cập Gamal Abdul Nasser. Ông dường như phù hợp với mẫu người dân tộc chủ nghĩa của vùng Ả Rập, xuất phát từ quân đội và trở thành Tổng thống. Tuy nhiên, ông tồn tại lâu hơn những người cùng thời với ông.

Trong thời gian gần 41 năm nắm quyền ông đã tạo ra một hệ thống chính quyền của riêng mình, hỗ trợ các nhóm vũ trang cực đoan khác nhau như nhóm IRA ở Bắc Ireland và nhóm Sayyaf Abu ở Philippines. Ông cũng là người đã cầm quyền một chính phủ có thể được xem là chế độ độc tài, độc đoán và tàn bạo nhất Bắc Phi.

Trong những năm cuối cùng dưới sự cai trị của ông, Libya nổi lên sau khi bị quốc tế cô lập theo sau vụ đánh bom chuyến bay Pan Am 103 trên bầu trời Lockerbie ở Scotland vào tháng Mười Hai năm 1988.

Đất nước này một lần nữa lại được các chính phủ phương Tây ve vãn và đã thu hút sự chú ý của các công ty nhờ dự trữ năng lượng khổng lồ của mình và các hợp đồng béo bở.

Libya

  • Đại tá Muammar Gaddafi lãnh đạo Libya từ năm 1969
  • Dân số 6,5 triệu; diện tích đất 1,77 triệu cây số vuông
  • Dân số với tuổi trung bình 24,2, và tỷ lệ biết chữ 88%
  • Tổng thu nhập quốc dân bình quân đầu người: 12.020 $

(Nguồn: Ngân hàng Thế giới 2009)

Cuộc nổi dậy đã lật đổ ông Gaddafi bắt đầu tại Libya vào tháng Hai năm 2011 ở thành phố Benghazi, thành phố lớn thứ hai nước này, một thành phố mà ông đã bỏ quên và người dân tại đó ông không hề tin tưởng trong suốt quá trình cai trị của mình.

Jamahiriya

Đại tá Gaddafi sinh ra trong một gia đình Bedouin ở Sirte năm 1946.

Ông luôn luôn sử dụng nguồn gốc bộ tộc, khiêm tốn của mình, thích đón tiếp quan khách trong lều của ông và luôn dựng lều trong các chuyến viếng thăm ngoại quốc.

Tính hợp pháp của ông phụ thuộc vào trước hết vào tinh thần chống thực dân của ông, và sau đó vào việc giữ nước trong cuộc cách mạng.

Triết lý chính trị của ông, được giải trình dài dòng trong Sách Xanh, là "chính phủ của quần chúng".

Năm 1977, ông Gaddafi tuyên bố một nhà nước Libya "Jamahiriya" - một từ mới có nghĩa là một nhà nước của quần chúng.

Lý thuyết là Libya đã trở thành một nền dân chủ của nhân dân, được điều hành thông qua các Hội đồng Cách mạng Quần chúng.

Đại tá Muammar Gaddafi


  • Sinh ra tại Sirte, Libya ngày 7 tháng Sáu năm 1942
  • Tham dự học viện quân sự tại Libya, Hy Lạp và Anh
  • Nắm quyền vào ngày 1 Tháng Chín 1969
  • Sách Xanh được công bố vào năm 1975
  • Kết hôn hai lần, có bảy người con trai và một con gái

Trên thực tế, tất cả các quyết định quan trọng và tài sản nhà nước vẫn nằm dưới sự kiểm soát chặt chẽ của ông.

Các lý thuyết xã hội

Ông Gaddafi là một người thao túng chính trị có kỹ năng, dùng các bộ lạc chống lại lẫn nhau và chống lại các cơ quan nhà nước hoặc các chính thể. Ông cũng phát triển một sự sùng bái cá nhân khá mạnh.

Sự cai trị của ông dần dần đã trở nên có đặc tính bảo trợ và kiểm soát chặt chẽ của một nhà nước cảnh sát.

Giai đoạn tồi tệ nhất tại đất nước Libya có lẽ là những năm 1980, khi Đại tá Gaddafi thử nghiệm với người dân các lý thuyết xã hội của ông.

Một phần trong "cuộc cách mạng văn hóa" của ông là cấm tất cả các doanh nghiệp tư nhân hoạt động và sách vở không lành mạnh thì bị đốt cháy.

Ông cũng đã ra lệnh ám sát những người bất đồng chính kiến ở nước ngoài. Tự do ngôn luận và lập hội hoàn toàn bị dẹp bỏ và ngoài ra còn vô số những hành vi đàn áp bạo lực khác.

Ông Gaddafi năm 1985

Đại tá Gaddafi thử nghiệm với người dân các lý thuyết xã hội vào những năm 1980s

Những việc này được theo sau là một thập kỷ cô lập của phương Tây sau khi vụ đánh bom Lockerbie.

Đối với người dân Libya chỉ trích Đại tá Gaddafi, tội ác lớn nhất của ông có thể là việc đã chiếm dụng và phung phí tiền của vào các chuyến đi nước ngoài và chuyện tham nhũng.

Với dân số chỉ có 6 triệu người và các khoản thu nhập từ dầu lửa hàng năm tới 32 tỷ đô la Mỹ trong năm 2010, tiềm năng của Libya là rất lớn. Tuy nhiên hầu hết người dân Lybia không cảm thấy sự giàu có của đất nước mình và điều kiện sống có thể khiến gợi nhớ tới các nước nghèo hơn Libya rất nhiều.

Tình trạng thiếu công ăn việc làm bên ngoài chính phủ có nghĩa là tỷ lệ thất nghiệp được ước tính là 30% hoặc nhiều hơn.

Hình thức chủ nghĩa xã hội đặc biệt của Libya cung cấp miễn phí giáo dục, y tế và trợ cấp nhà ở và giao thông vận tả được bao cấp nhưng mức lương rất thấp và sự giàu có của nhà nước và lợi nhuận từ đầu tư nước ngoài chỉ đem lại lợi lộc cho một tầng lớp thượng lưu nhỏ.

Năm 1999, nhà lãnh đạo Libya đã trở lại chính trường quốc tế sau thời gian bị cô lập gần như hoàn toàn sau khi ông chấp nhận trách nhiệm vụ đánh bom Lockerbie.

Sau vụ tấn công 11 tháng Chín năm 2001, ông ký với chính phủ Mỹ cái gọi là "cuộc chiến chống khủng bố". Ngay sau khi Mỹ xâm chiếm Iraq năm 2003, Libya đã tuyên bố từ bỏ vũ khí hạt nhân và các chương trình vũ khí sinh học. Cả hai quyết định này bị những người chỉ trích Libya nhìn nhận một cách hoài nghi.

Trong những năm cuối cùng dưới sự cai trị của ông, khi phát sinh câu hỏi người kế nhiệm ông, hai con trai ông dường như công khai cạnh tranh và làm hại lẫn nhau trong cuộc cạnh tranh này.

Ảnh hưởng của Saif al-Islam, người con trai lớn vốn quan tâm đến các phương tiện truyền thông và các vấn đề nhân quyền, dường như suy yếu trước ảnh hưởng ngày càng gia tăng của Mutassim, người có một vai trò đầy quyền lực trong lĩnh vực an ninh.

Vào đầu năm 2011, được khuyến khích từ các nước láng giềng phía tây và phía đông, người dân Libya đã nổi dậy chống lại 40 năm cầm quyền tàn bạo của nhà lãnh đạo này.

source

RSS